Vì mối quan hệ thân thuộc nên khi cho người thân hay bạn bè mượn tiền
không hề lập giấy tờ, biên nhận gì. Giờ họ trở mặt không trả thì có thể nhờ
pháp luật can thiệp được không?
Hiện nay, tình trạng cho người thân quen
vay mượn số tiền lớn nhưng không hề lập giấy tờ, biên nhận là thường diễn ra
trong xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, cũng không hiếm trường hợp người thân quen
dựa vào đó mà trở mặt, không chịu trả lại số tiền đã vay mượn và người cho mượn
rơi vào cảnh thiệt thòi, không đòi được nợ vì không có giấy tờ gì chứng minh.
Theo Điều 471 BLDS 2005
thì hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay
giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho
vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có
thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
Việc cho vay tiền giữa hai người là giao dịch dân sự. Pháp luật
quy định giao dịch dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể. Giao dịch vay mượn tiền nêu trên được pháp luật công nhận.
Như vậy, tin nhắn điện thoại và email có
được xem là bằng chứng không?
Theo Điều 10 Luật Giao dịch
Điện tử 2005 thì: “Thông điệp dữ liệu
được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư
điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác.”
Vì vậy, để có giá trị chứng minh tốt nhất khi giải quyết tại Tòa
án nên nhờ Thừa phát lại lập vi bằng để ghi nhận những nội dung tin nhắn trong
điện thoại và email để làm bằng.
Theo Điều 94 Bộ luật Tố
tụng Dân sự 2015 thì chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây: Tài liệu
đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành
vi pháp lý do người có chức năng lập…
Khi có đầy đủ bằng chứng chứng minh người vay tiền đã vi phạm
nghĩa vụ phải trả đủ tiền khi đến hạn, thì bên cho vay có quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết buộc người vay tiền phải có nghĩa vụ trả tiền vay cho mình theo quy
định.
Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, nếu bị đơn là cá nhân thì thẩm
quyền giải quyết vụ án dân sự là Tòa án cấp huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc.
Nếu trong trường hợp không biết nơi cư trú, làm việc của bị đơn
thì bạn có thể khởi kiện tại Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc cuối cùng hoặc
nơi bị đơn có tài sản giải quyết.