Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực từ ngày 1/7 quy định một số biện pháp ngăn chặn đối với người phạm tội thay thế hình thức tạm giam.
Đặt tiền để bảo đảm
Theo điều 122 Bộ Luật Tố tụng hình sự, đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.
Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ sau: Thứ nhất, bị can, bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Thứ hai, họ không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thứ ba, những người này không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Thứ tư, bản thân họ không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án, không đe dọa, không chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan nói trên sẽ bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố, hoặc xét xử. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì viện kiểm sát, tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ tiền đã đặt.
Người thân thích của bị can, bị cáo được cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án chấp nhận cho đặt tiền để bảo đảm phải làm giấy cam đoan để bị can, bị cáo không vi phạm các nghĩa vụ nêu trên. Nếu vi phạm, số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Khi làm giấy cam đoan, người này được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan bị can, bị cáo.
Điều luật nêu rằng Bộ trưởng Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng VKSND Tối cao, Chánh án TAND Tối cao và Bộ trưởng Quốc phòng quy định chi tiết trình tự, tủ thục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm. Tuy nhiên, hiện chưa có văn bản nào quy định cụ thể về mức tiền.
Đặt tiền để bảo đảm đối với người bị yêu cầu dẫn độ
Điều 505 quy định đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với người bị yêu cầu dẫn độ căn cứ vào tình trạng tài sản của người đó nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của tòa án. Việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với người bị yêu cầu dẫn độ được thực hiện tương tự bị can, bị cáo là người Việt Nam.
Thời hạn áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với người này không được quá thời hạn bảo đảm việc xem xét yêu cầu dẫn độ và thời hạn xem xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định dẫn độ hoặc quyết định từ chối dẫn độ theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp.
Bảo lĩnh
Một trong những biện pháp ngăn chặn khác mà bị can, bị cáo vẫn được tại ngoại là bảo lĩnh. Theo điều 121, bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Khác với biện pháp đặt tiền để bảo đảm, cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu.
Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người.
Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.
Trong giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ như đối với việc đặt tiền để bảo đảm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan việc nhận bảo lĩnh.
Nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật.