Đầu tiên, phải yêu cầu Tòa án ra quyết
định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự:
Điều 22 Bộ luật dân sự 2005 quy định như sau:
“Điều
22. Mất năng lực hành vi dân sự
1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không
thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi
ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố
người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định
pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân
sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do
người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”
Theo đó, Điều 376 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về Quyền yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực
hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi của mình như sau:
“1. Người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan
có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Người thành niên không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
do tình trạng thể chất, tinh thần nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân
sự có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố họ là người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi theo quy định của Bộ luật dân sự.”
Trong thời hạn chuẩn bị
xét đơn yêu cầu, theo đề nghị của người yêu cầu, Tòa án có thể trưng cầu giám
định sức khỏe, bệnh tật của người bị yêu cầu tuyên bố bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự hoặc giám định pháp y tâm thần đối với người bị yêu cầu tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Trong trường hợp này, khi nhận được kết luận giám định, Tòa án phải ra quyết
định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu.
Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố
một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Trong quyết định tuyên bố một người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, Tòa án phải xác định người đại diện theo pháp luật
của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
Trong quyết định tuyên bố một người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, Tòa án phải chỉ định người giám hộ, xác
định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
Sau khi Tòa án ra quyết định tuyên bố
một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, Tòa án phải chỉ định người giám hộ, xác định
quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
Điều 53 Bộ luật dân sự 2015 quy định về Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực
hành vi dân sự như sau:
“Điều 53. Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi
dân sự
Trường hợp không có người giám hộ theo quy
định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này thì người giám hộ đương nhiên của
người mất năng lực hành vi dân sự được xác định như sau:
1. Trường hợp vợ là người mất năng lực
hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành
vi dân sự thì vợ là người giám hộ.
2. Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực
hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không
có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người
con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ
điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.
3. Trường hợp người thành niên mất năng lực
hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ
điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.”
Điều 54 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
1. Trường hợp người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên theo quy định
tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật này thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú
của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ.
Trường hợp có tranh chấp giữa những người
giám hộ quy định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật này về người giám hộ hoặc
tranh chấp về việc cử người giám hộ thì Tòa án chỉ định người giám hộ.
Trường hợp cử, chỉ định người giám hộ cho
người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của
người này.
2. Việc cử người giám hộ phải được sự đồng
ý của người được cử làm người giám hộ.
3. Việc cử người giám hộ phải được lập
thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể
của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ.
4. Trừ trường hợp áp dụng quy định tại
khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này, người giám hộ của người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi do Tòa án chỉ định trong số những người giám hộ quy định
tại Điều 53 của Bộ luật này. Trường hợp không có người giám hộ theo quy định
trên, Tòa án chỉ định người giám hộ hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc
giám hộ.
Căn cứ vào các quy định trên đây, có thể
thấy để cử người giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự, thì trước hết
phải có quyết định của Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự,
và kèm theo đơn yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự phải có
kết luận của cơ quan chuyên môn và các chứng cứ khác để chứng minh người đó bị
bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành
vi của mình.